Tác giả: GS.LÂM QUANG THIỆP
Tóm tắt
Phần đầu của bài viết
nêu tóm lược lịch sử phát triển của Giáo dục đại học Việt Nam qua các giai
đoạn, có lưu ý đến ảnh hưởng của các mô hình Giáo dục đại học nước ngoài, đặc
biệt là mô hình Pháp, Liên Xô và Mỹ, lên hệ thống đó.
Tiếp đến bài viết nêu một số sự kiện lịch sử đặc
biệt của Giáo dục đại học Hoa Kỳ và rút ra các đặc điểm quan trọng của nó được
hình thành từ chiều sâu lịch sử, đó là tính phi tập trung, tính thực tiễn, tính
đại chúng và tính thị trường. Phần cuối bài viết nêu quy trình phát triển của
Giáo dục đại học Việt Nam từ khi bắt đầu thời kỳ đổi mới năm 1997 đến nay và
việc áp dụng những kinh nghiệm của Giáo dục đại học Hoa Kỳ trong quy trình đổi mới.
Tác giả chỉ ra rằng việc áp dụng kinh nghiệm
của Giáo dục đại học Hoa Kỳ đó bắt đầu từ giai đoạn trực tiếp nhưng chưa tự
nguyện ở Miền Nam Việt Nam trước năm 1975, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của Việt Nam cũng đang tiếp diễn, chuyển qua giai đoạn gián tiếp lúc Việt
Nam cũng bị Hoa Kỳ cấm vận, tiến đến giai đoạn trực tiếp và tự nguyện ngày nay,
khi Hoa Kỳ đó lập quan hệ bình thường với Việt Nam.
Mở đầu
Sự hình thành nền giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam
có thể được đánh dấu bằng việc thành lập Quốc Tử Giám, trường đại học đầu tiên
của Việt Nam, theo mô hình phương Đông, tại kinh thành Thăng Long vào
năm 1076, dưới thời nhà Lý. Tuy nhiên GDĐH theo mô hình phương Tây được du nhập
từ Pháp vào Việt Nam rất muộn, với việc thành lập trường Cao đẳng Y khoa năm
1904 và tổ chức hợp nhất một số trường thành Viện Đại học Đông Dương năm 1943
tại Hà Nội. (1) Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, Việt Nam được chia
thành hai miền ở phía bắc và nam vĩ tuyến 17. Trong thời gian từ năm 1954 đến
năm 1975 ở phía Bắc hệ thống GDĐH phát triển mạnh, nhiều trường đại học được
thành lập, phần lớn là các trường đơn lĩnh vực hoặc đơn ngành theo mô hình của
Liên Xô, song song với các viện nghiên cứu nằm bên ngoài các trường đại học.
Cũng vào giai đoạn đó ở phía Nam hệ thống GDĐH cũng phát triển nhanh, một bộ
phận tiếp tục chịu ảnh hưởng của mô hình Pháp (tiêu biểu là Viện Đại học Sài
Gòn), một bộ phận khác thành lập muộn hơn chịu ảnh hưởng của mô hình Mỹ (tiêu
biểu là Viện Đại học Cần Thơ và một số trường Đại học cộng đồng được thành lập vào
cuối giai đoạn này). Sau khi thống nhất đất nước năm 1975 trên cả lãnh thổ Việt
Nam
, GDĐH được xây dựng lại theo kiểu miền Bắc: hệ thống GDĐH theo mô hình Liên Xô
được củng cố và phát triển. Theo mô hình này chương trình đào tạo cấp đại học
đầy đủ thường là 4 năm, 5 năm hay thậm chí 6 năm, học liền một mạch. Các ngành
đào tạo thường là hẹp, chuyên sâu vào những năm cuối. Cơ cấu hệ thống GDĐH bao
gồm cấp đại học kéo dài từ 4 đến 6 năm, cấp phó tiến sĩ nối sau đó với thời
gian 3-4 năm, và cấp tiến sĩ tiếp theo với thời gian không quy định. Cơ chế kế
hoạch hóa tập trung đối với GDĐH biểu hiện rõ ở các yếu tố: sinh viên được
tuyển vào các trường đại học thường với số lượng không lớn bằng một quy trình chặt
chẽ, họ không phải đóng học phí và được bao cấp một chi phí đủ sống ở mức độ
thấp, sau khi tốt nghiệp họ được phân công vào các vị trí trong bộ máy nhà nước
hoặc các cơ sở kinh tế quốc doanh. Các trường đại học được Nhà nước cấp chỉ
tiêu tuyển sinh, kinh phí đào tạo và quy định chương trình đào tạo. Không có
các trường ngoài công lập, các trường tư đã tồn tại ở miền Nam trước năm
1975 bị giải thể. Hệ thống GDĐH thống nhất theo mô hình Liên Xô này tồn tại cho
đến cuối năm 1986, bộc lộ nhiều nhược điểm gây trì trệ cho sự phát triển. Cả
đất nước lúc đó cũng lâm vào tình trạng khủng hoảng chung về kinh tế xã hội do
khó khăn sau chiến tranh và tác động tiêu cực của mô hình kinh tế kế hoạch hóa
tập trung. Từ đầu năm 1987, Chính phủ Việt Nam quyết định từ bỏ mô hình kinh tế
kế hoạch hóa tập trung, chuyển sang “nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa”, bắt đầu thời kỳ “Đổi mới”. Từ đó, cùng với kinh tế xã hội, nền
GDĐH Việt Nam
cũng có nhiều chuyển biến. Như vậy, cho đến nay nền GDĐH hiện đại của Việt Nam đã chịu ảnh
hưởng của ba mô hình GDĐH phương Tây: mô hình Pháp, mô hình Liên Xô (mà thực
chất là hỗn hợp mô hình Pháp, Đức với sự chi phối của hệ thống kinh tế kế hoạch
hóa tập trung) và mô hình Mỹ.
Về sự phát triển và đổi
mới của giáo dục đại học Việt Nam
cho đến nay
Vào giai đoạn 1954 –
1975, GDĐH miền Bắc Việt Nam hầu như đóng cửa đối với thế giới phương Tây, do
đó, GDĐH Hoa Kỳ không có tác động nào lên hệ thống GDĐH miền Bắc. Trong khi đó
ở miền Nam Việt Nam GDĐH chịu hai luồng ảnh hưởng song song của mô hình GDĐH
Pháp và mô hình GDĐH Hoa Kỳ. Chi nhánh tại Sài Gòn của Viện Đại học Đông Dương
có từ năm 1949 cùng với một bộ phận của Viện Đại học Đông Dương được chuyển từ
Hà Nội vào miền Nam năm 1954 hợp nhất thành Viện Đại học Sài Gòn (1).
ở đây, ảnh hưởng của mô hình GDĐH Pháp vẫn còn mạnh cho đến năm 1975. Viện Đại
học Sài Gòn tuyển sinh theo kiểu ghi danh học tự do, chỉ đòi hỏi bằng tú tài,
sinh viên được cấp bằng cử nhân sau khi tích lũy được một số lượng tối thiểu 6
mô-đun kiến thức lớn, mỗi mô-đun khoảng 300 tiết học. Việc tích lũy từng mô-đun
được xác định bằng các kỳ thi chặt chẽ, trước hết là thi viết, sau đó thi vấn
đáp và cuối cùng là thi thực nghiệm, sinh viên qua được ba kỳ thi đó đối với
mỗi mô-đun thì được cấp một chứng chỉ. Với phương thức học theo hệ chứng chỉ
này sinh viên ghi danh học rất đông nhưng tỷ số sinh viên tích lũy đủ kiến thức
để đạt được văn bằng tương đối thấp. Các trường đại học được thành lập tại miền
Nam Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975 phần lớn vận hành theo mô hình Mỹ, tiêu
biểu là Viện Đại học Cần Thơ thành lập năm 1966, Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức
thành lập năm 1973. Các viện đại học này đều được tổ chức theo mô hình đại học
đa lĩnh vực, và thiết kế quy trình đào tạo theo học chế tín chỉ kiểu Mỹ. Một số
viện đại học tư cũng được thành lập. Ngoài ra, một số trường đại học cộng đồng
theo mô hình Mỹ được thành lập vào đầu thập niên 1970 tại Nha Trang, Đà Nẵng,
Mỹ Tho nhưng chưa thật sự đi vào hoạt động thì Việt Nam thống nhất. (2) Từ
năm 1987, như đã nói trên đây, Việt Nam bắt đầu thời kỳ diễn ra. Các chủ
trương đổi mới GDĐH đầu tiên được đề xuất tại Hội nghị Hiệu trưởng các trường
đại học tại Nha Trang mùa hè năm 1987 thể hiện tập trung trong 4 tiền đề đổi
mới sau đây([1]):
1) GDĐH không chỉ đáp
ứng nhu cầu của biên chế Nhà nước và kinh tế quốc doanh, mà còn phải đáp ứng
nhu cầu của các thành phần kinh tế khác và nhu cầu học tập của nhân dân;
2) GDĐH không chỉ dựa
vào ngân sách Nhà nước mà còn dựa vào các nguồn lực khác có thể huy động được:
sự đóng góp của các cơ sở sản xuất kinh doanh, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, của cộng đồng, của người học; nguồn vốn do các hoạt động của nhà trường về
nghiên cứu khoa học, lao động sản xuất, dịch vụ làm ra; nguồn vốn do các quan
hệ quốc tế mang lại;
3) GDĐH không chỉ theo
chỉ tiêu kế hoạch tập trung như một bộ phận của kế hoạch nhà nước, mà còn phải
theo những đơn đặt hàng, những xu thế dự báo, những nhu cầu học tập từ nhiều
phía trong xã hội;
4) GDĐH không nhất
thiết phải gắn chặt với việc phân phối công tác cho người tốt nghiệp theo cơ
chế hành chính bao cấp; người tốt nghiệp có trách nhiệm tự tìm việc làm, tự tạo
việc làm trong mọi thành phần kinh tế; những nơi sử dụng lao động được đào tạo
sẽ tuyển dụng theo cơ chế chọn lọc, nhà trường giúp họ nâng cao trình độ, tiếp
tục bồi dưỡng để thích nghi với những yêu cầu cơ động về ngành nghề trong thực
tiễn.
Theo 4 tiền đề trên, các trường đại học thực hiện hàng loạt đổi mới: tăng
số lượng đào tạo ngoài chỉ tiêu Nhà nước, cho ra đời nhiều loại hình đào tạo
mới; tăng cường các hoạt động nghiên cứu khoa học, phục vụ sản xuất, các hợp
đồng đào tạo và dịch vụ để tăng nguồn thu, thu học phí của một bộ phận sinh
viên; tách quá trình phân phối khỏi quá trình sản xuất, tức là nhà trường không
đảm nhiệm phân công công tác cho người tốt nghiệp như trước kia, từ đó tăng
tính năng động của sinh viên. Cũng từ các tiền đề trên các trường đại học được
tổ chức lại để tăng hiệu quả và hiệu suất đào tạo trong kinh tế thị trường:
loại hình đại học đa lĩnh vực được xem là mô hình thích hợp để sắp xếp lại các
trường đại học. Từ đó, năm 1993 đã hình thành các Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại
học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng, Đại học Thái
Nguyên theo mô hình viện đại học; trường Đại học mở Bán công Thành phố Hồ Chí Minh
và Viện Đại học mở Hà Nội đào tạo theo quy trình mở và từ xa cũng được xây
dựng. Đặc biệt từ năm 1988, Trung tâm Đại học Dân lập Thăng Long được thí điểm
thành lập tại Hà Nội và 7 năm sau gần 20 trường đại học và cao đẳng dân lập ra
đời. Về ngành nghề và quy trình đào tạo cũng có những thay đổi quan trọng: đối
với phần lớn trường đại học mà sản phẩm không có địa chỉ sử dụng xác định, việc
đào tạo cấp đại học được chuyển từ mô hình ngành hẹp và liền một mạch thành mô
hình đào tạo theo diện rộng với hai giai đoạn để người học dễ thích nghi khi
chuyển đổi ngành nghề và tìm việc làm; chương trình học được cấu trúc theo
mô-đun (học phần) để tăng tính mềm dẻo, tính khối lượng học tập theo “đơn vị học
trình”; đối với các trường thuận lợi thì chuyển đào tạo theo tín chỉ (Đại học
Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh là nơi thực hiện học chế tín chỉ kiểu Mỹ đầu
tiên năm 1993, sau đó đến Đại học Đà Lạt, Đại học Cần Thơ, Đại học Thủy sản Nha
Trang, Đại học Dân lập Thăng Long...). Về quản lý đào tạo cũng thay thế việc áp
đặt ngành nghề và chương trình đào tạo từ Bộ xuống các trường đại học bằng cách
ban bố khung chương trình cho các loại trường đại học, cao đẳng (Quyết định
2677, 2678/QĐ-ĐH năm 1993). Vào năm 1991 hình thành cấp cao học với học vị thạc
sĩ ở trên cấp đại học và dưới cấp đào tạo tiến sĩ, và từ năm 1996 quyết định
thay chế độ hai học vị ở cấp đào tạo tiến sĩ (phó tiến sĩ và tiến sĩ) bằng chế độ
một học vị ở mức phó tiến sĩ trước đây với tên gọi là tiến sĩ. Những
đổi mới quan trọng về cơ cấu hệ thống, quy trình đào tạo và các loại hình nhà
trường của GDĐH được thực hiện lần lượt từ năm 1987 cho đến nay đã được khẳng
định trong Luật Giáo dục năm 1998 và 2005 (3), trong văn bản “Chiến
lược phát triển giáo dục 2001-2010” (4) và trong nhiều văn bản chỉ
đạo khác của Chính phủ. Các khẳng định quan trọng nhất của quá trình đổi mới
GDĐH cho đến nay có thể tóm tắt như sau:
1) cơ cấu hệ thống
trình độ của GDĐH với các cấp học chính là cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ;
2) các loại hình trường
đại học vể tổ chức và sở hữu, trong đó đại học đa lĩnh vực, cao đẳng cộng đồng,
các đại học dân lập, tư thục;
3) quy trình đào tạo đa
giai đoạn với việc mô-đun hóa kiến thức theo học phần;
4) chương trình đào tạo
cấp cử nhân phân chia thành hai khối kiến thức: giáo dục đại cương và giáo dục
chuyên nghiệp, và bước đầu chú ý đến khối kiến thức giáo dục đại cương;
5) bước đầu thừa nhận
quyền tự chủ của trường đại học đi kèm với trách nhiệm xã hội của chúng với
việc xây dựng hệ thống kiểm định chất lượng để đảm bảo trách nhiệm xã hội. Qua
các xu hướng đổi mới nói trên, mà những người làm chính sách GDĐH Việt Nam
thường giải thích là nhằm thích nghi với kinh tế thị trường và hội nhập với khu
vực, có thể thấy rõ hình ảnh của mô hình GDĐH Hoa Kỳ, tuy rằng điều đó đã không
được tuyên bố tường minh. Cần lưu ý rằng, giai đoạn 1975-1995 là khoảng thời
gian mà Việt Nam bị áp đặt sự cấm vận của Hoa Kỳ. Như vậy, ảnh hưởng của mô
hình GDĐH Hoa Kỳ đã vào Việt Nam theo các con đường trực tiếp và gián tiếp.
Những ảnh hưởng trực tiếp đã tác động vào GDĐH miền Nam Việt Nam trước năm 1975
và những ảnh hưởng gián tiếp tác động vào GDĐH trên cả nước Việt Nam thống nhất
từ khi Việt Nam chuyển hướng theo kinh tế thị trường năm 1987. Trong những năm
gần đây Chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều chủ trương thúc đẩy tiến trình đổi
mới của GDĐH Việt Nam nhằm đáp ứng sự phát triển nhanh chóng của kinh tế xã hội
và chuẩn bị hội nhập quốc tế. Biểu hiện tập trung nhất là hoạt động triển khai
xây dựng đề án đổi mới GDĐH bắt đầu từ giữa năm 2004 với kết quả là một khung
đề án đổi mới được Chính phủ chấp nhận bằng việc thông qua Nghị quyết đổi mới
toàn diện và triệt để GDĐH Việt Nam cho giai đoạn 2006-2020(5). Các
ý tưởng quan trọng về cơ cấu hệ thống, loại hình trường đại học, quy trình và
chương trình đào tạo, quyền tự chủ của trường đại học như đã nêu trên đây được tiếp
tục khẳng định và tăng cường. Đặc biệt, các yếu tố sau đây được nhấn mạnh: hệ
thống GDĐH sẽ được đại chúng hóa; hệ thống tín chỉ sẽ được mở rộng; quyền tự
chủ và trách nhiệm xã hội của trường đại học sẽ được nâng cao với các cơ chế cụ
thể về hội đồng trường, về hệ thống kiểm định công nhận; hệ thống đại học tư sẽ
được khuyến khích; cơ chế tài chính đại học chú trọng bài toán chia sẻ chi phí
giữa Nhà nước, sinh viên và cộng đồng sẽ được xác lập... Tất cả các cố gắng đổi
mới GDĐH nói trên nhằm làm cho nó phù hợp với việc đổi mới nền kinh tế theo
hướng thị trường và hội nhập quốc tế. Có người nhận xét: GDĐH Việt Nam đang chuyển
biến theo mô hình GDĐH Hoa Kỳ. Để xem xét căn cứ của nhận định đó chúng ta hãy
tìm hiểu các đặc điểm của GDĐH Hoa Kỳ.
Đặc điểm của giáo dục
đại học Hoa Kỳ
GDĐH Hoa Kỳ là một hệ thống GDĐH đồ sộ nhất, đa
dạng nhất, phức tạp nhất thế giới, do đó một người nước ngoài chưa có cơ hội
thâm nhập lâu dài vào nền GDĐH đó khó hiểu biết thật sâu sắc về nó. Tuy nhiên,
để có thể học tập những gì từ hệ thống đó nhằm áp dụng vào GDĐH Việt Nam cần phải
hiểu được bản chất của nó. Vì vậy, tác giả của bài này cố gắng thử tìm hiểu những
đặc trưng quan trọng nhất, bản chất nhất của nền GDĐH Hoa Kỳ qua lịch sử phát
triển và hiện trạng của nó.
Phải nói rằng so với GDĐH phương Đông có lịch sử
hơn ba nghìn năm cũng như so với GDĐH châu Âu, cái nôi của nền GDĐH phương Tây
kiểu hiện đại bắt nguồn từ khoảng thế kỷ thứ XII thì GDĐH Hoa Kỳ hết sức non
trẻ, với lịch sử chỉ khoảng hơn bốn trăm năm (6). Thế mà GDĐH Hoa Kỳ
đã có sức hấp dẫn kỳ lạ: Nhật Bản đã chọn mô hình GDĐH Hoa Kỳ để noi theo từ
thời Minh Trị, Trung Quốc đã xây dựng lại nền GDĐH của mình chủ yếu theo kiểu
Mỹ từ khi thực hiện cải cách mở cửa cách đây một phần tư thế kỷ, và gần nhất,
“quá trình Bologna” của châu Âu thực hiện một cuộc cải cách sâu rộng về GDĐH bắt
đầu từ năm 1999 để thiết lập một “không gian GDĐH châu Âu” vào năm 2010, trong
đó có rất nhiều yếu tố tương đồng với GDĐH Hoa Kỳ(7). Vì sao nền
GDĐH Hoa Kỳ có sức hấp dẫn mạnh mẽ như vậy? Những yếu tố nào từ lịch sử phát
triển đã tạo nên sức mạnh hiện tại của GDĐH Hoa Kỳ?
Mọi người đều biết GDĐH Hoa
Kỳ không phải là một nền GDĐH “cội nguồn”, nó chịu nhiều ảnh hưởng của GDĐH
châu Âu, đặc biệt là của Anh và Đức, nhưng lịch sử phát triển của GDĐH Hoa Kỳ
với những sự kiện đặc biệt đã tạo nên các triết lý cơ bản, độc đáo của GDĐH Hoa
Kỳ, góp phần hình thành những ý tưởng về tổ chức và quản lý hệ thống GDĐH.
Chúng ta hãy điểm lại một vài sự kiện lịch sử tiêu biểu mà bản thân tôi, một
người vốn đã từng quen với những suy nghĩ theo hệ thống kế hoạch hóa tập trung,
cảm thấy hết sức bất ngờ và lý thú.
Thất bại của G.Washington trong việc thành lập một đại học quốc gia mẫu mực cho Liên bang Hòa Kỳ
Năm 1789, George Washington được bầu làm tổng
thống đầu tiên của Hoa Kỳ. Lúc bấy giờ ở một số bang Hoa Kỳ có nhiều trường đại
học hình thành với cơ sở hạ tầng nghèo nàn và đội ngũ giáo chức rất yếu. Washington thuyết phục
Quốc hội về việc thành lập một trường đại học quốc gia mạnh, tập trung đầu tư
các nguồn lực vào đó, vì theo ông ta, một trường đại học quốc gia mạnh sẽ thúc
đẩy khối thống nhất quốc gia. Không may ý kiến của Washington không được ủng
hộ, vì ở thời điểm đó sự quan tâm hàng đầu của các đại biểu là chủ quyền từng
bang của riêng họ chứ không phải sức mạnh của quốc gia liên bang non trẻ. Như
vậy ý đồ thành lập một trường đại học mạnh tầm cỡ quốc tế làm kiểu mẫu cho cả
liên bang không được ủng hộ (8). Ngày nay xem xét và đánh giá lại sự
kiện lịch sử đó, nhiều nhà nghiên cứu GDĐH Hoa Kỳ không cho rằng thất bại của
G. Washington là một điều rủi ro. Chính vì không có một trường đại học mạnh duy
nhất làm mẫu mực trong toàn liên bang, hệ thống GDĐH Hoa Kỳ không bị ràng buộc
bởi các khuôn phép của các trường đại học theo kiểu cũ châu Âu, điều đó lại tạo
nên tính đa dạng của hệ thống GDĐH Hoa Kỳ. Cũng vì không có một trường đại học
mạnh duy nhất làm kiểu mẫu, ở Hoa Kỳ đã ra đời hàng loạt trường đại học, trong
đó có nhiều trường nhỏ và yếu. Lúc đó, khi nói về việc thành lập trường đại học
thì ở châu Âu phương châm thường là: “nếu không làm được cái tốt nhất thì thà
rằng chẳng có gì”, còn ở Hoa Kỳ phương châm lại là: “thà có được một cái gì đó
còn hơn là không có gì cả”. Tính đa dạng của hệ thống GDĐH Hoa Kỳ, mà nhiều
người cho rằng đó là biểu hiện sự “thiếu tính hệ thống”, thì nhiều nhà nghiên cứu
GDĐH Hoa Kỳ lại tìm thấy ở đó một trong những nguồn gốc tạo nên sức mạnh của
GDĐH Hoa Kỳ: chính tính đa dạng của hệ thống tạo nên sự phong phú về chức năng
giúp phục vụ cho nhu cầu phát triển đa dạng của xã hội. Sự phát triển đa dạng
và nhanh chóng của hệ thống GDĐH đó được điều khiển không phải bởi một sự chỉ
đạo thống nhất của quốc gia, mà bởi sự lựa chọn từ cơ chế cạnh tranh của thị
trường. Chẳng hạn, từ 1969 đến 1975 ở Hoa Kỳ có khoảng 800 trường đại học mới
được thành lập, và cũng có khoảng 300 trường khác phải đóng cửa hoặc sáp nhập,
tức là còn tồn tại được 500 trường (8). Có thể cái điều dường như “thiếu
tính hệ thống” của nền GDĐH Hoa Kỳ lại phản ánh một hệ thống GDĐH đa dạng đã
hình thành với một sức mạnh liên kết chặt chẽ, mỗi trường đại học thường là
thành viên của một hiệp hội tự nguyện hoạt động theo một cơ chế kiểm định chất
lượng chặt chẽ thấm đượm tính cạnh tranh của thị trường
Thắng lợi của trường đại học tư Dartmouth trong vụ kiện của bang New Hampshire ở Tòa án Tối cao về quyền điều hành nhà trường
Vào năm 1816, Bang New Hampshire đã ra một dự luật
cung cấp cho Chính quyền Bang những quyền hạn rất rộng rãi để “cải cách” trường
Đại học tư Dartmouth, với lập luận dường như rất hợp lý rằng trường đại học (dù
rằng theo quy chế tư nhân) phải được thành lập vì lợi ích của nhân dân New
Hampshire, do đó trong quá trình điều hành, nhà trường phải nghe theo ý kiến
của công chúng thông qua Chính quyền Bang. Năm 1819, Chánh án Tòa án Tối cao
Hoa Kỳ lúc đó là J.Marshall đã kết luận theo chiều hướng ủng hộ trường Đại học
tư Dartmouth, tuyên bố rằng theo Hiến pháp, Chính quyền Bang không được phép ra
bất kỳ một dự luật nào “có tác hại đến nhiệm vụ quy định bởi các hợp đồng”, và
rằng giấy phép thành lập mà nhà trường được cấp trước đây chính là một hợp đồng(9).
Marshall quan niệm rằng, sự can thiệp của giới cầm quyền vào việc quản lý các
cơ sở dịch vụ tư nhân, dù rằng các dịch vụ đó dưới dạng một công ty hay do sự
điều hành cá nhân, đều rất nguy hiểm. Thắng lợi của trường Đại học tư Dartmouth
tại Tòa án Tối cao năm 1819 có tác động dội lại rất mạnh mẽ đến các doanh
nghiệp tư nhân cũng như phương hướng phát triển tương lai của GDĐH Hoa Kỳ.
Quyết định của J.Marshall đã trở thành một đảm bảo an toàn cho việc thành lập
và phát triển của các trường đại học tư. Người ta tin rằng một khi đã nhận được
giấy phép thành lập của bang, những người thành lập sẽ được đảm bảo quyền kiểm
soát nhà trường của mình trong tương lai
Đạo luật Morrill cấp đất công để xây dựng trường đại học
Trong thời gian Nội chiến của Hoa Kỳ (1861-1865),
vào năm 1862, dưới thời Tổng thống A. Lincoln đã ra đời Đạo luật Morrill quy
định cấp đất công cho các bang để xây dựng các trường đại học bang. Chỉ các
bang không chống lại Liên bang mới được hưởng quyền lợi này. Mỗi đầu thượng
nghị sĩ đại diện cho bang được cấp 30 nghìn acre (khoảng 12 nghìn ha), đất này đặc
biệt dành để phát triển các trường đào tạo cho các ngành nông nghiệp và cơ khí.
Đạo luật cấp đất Morrill xác định tính chất của một nền GDĐH mới, rất thực
dụng: thúc đẩy GDĐH phục vụ cho việc phát triển nông nghiệp và cơ khí. Với sự
thành lập các trường đại học được cấp đất, số sinh viên nhập học các ngành kỹ
thuật cơ khí tăng nhanh trong các thập niên 1880 và 1890, nhưng sinh viên vào
các ngành nông nghiệp vẫn ít. Tuy gặp khó khăn về sự phát triển nhà trường,
nhưng nhờ nguồn thu nhập ít ỏi có được, các trường này vẫn tồn tại và trưởng
thành dần cho đến thập niên 1890. Vào năm 1890, Đạo luật Morrill 2 ra đời mang
lại cho các trường đại học được cấp đất một quỹ trợ cấp trực tiếp hàng năm của
Liên bang, một điều kiện thuận lợi có tính quyết định ở thời điểm mà các trường
đại học đang đi vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ nhất (9). Đạo
luật Morrill cấp đất công để thành lập các trường đại học là một sự kiện lịch
sử đặc sắc của GDĐH Hoa Kỳ. Chẳng những nó thể hiện sự quan tâm của Nhà nước
Liên bang đối với GDĐH mà còn khẳng định một quan niệm về GDĐH khác với các
quan niệm truyền thống của châu Âu có từ thời Trung cổ: trường đại học và các
ngành nghề đào tạo của chúng phải gắn chặt với sự phát triển sản xuất, kinh tế,
xã hội, chứ không chỉ là công cụ để đào tạo các quan chức cai trị và các nhà
truyền giáo
Đạo luật "GI Bill" năm 1944 tạo cơ hội cho cựu quân nhân nhập học đại học
Vào thời điểm sắp kết thúc Chiến tranh thế giới
thứ hai, năm 1944, Hoa Kỳ ban hành Đạo luật Tái Điều chỉnh đối với Quân nhân
(“GI Bill”(10)), trong đó có các điều khoản đảm bảo cho các cựu quân
nhân được nhập học các chương trình khác nhau trong các trường đại học. Với sự
hỗ trợ của Đạo luật nói trên, một “cơn lũ” các cựu quân nhân tràn vào các
trường đại học: vào năm 1947 1,1 triệu cựu quân nhân Mỹ đã được nhận vào đại học,
trong khi trước chiến tranh tổng số sinh viên đại học nói chung chỉ là 1,5
triệu. Đây là thời kỳ mở rộng quy mô lớn nhất trong lịch sử GDĐH Hoa Kỳ. Trong
khoảng thời gian từ 1940 đến 1970, tỉ lệ sinh viên vào đại học so với thanh
niên cùng độ tuổi tăng lên gấp ba, từ 15% đến 45%; số lượng sinh viên đại học
tăng lên gần 5 lần, số sinh viên sau đại học tăng lên gần 9 lần, riêng thập
niên 1960 sự phát triển tính theo phần trăm đạt cao nhất so với bất kỳ thập
niên nào. Một loại trường đóng góp cho sự gia tăng này là các trường cao đẳng
cộng đồng công lập, mà trong giai đoạn từ 1965-1972 đã ra đời với tỉ lệ cứ hơn
một trường trong một tuần lễ (9). Đạo luật GI Bill lại là một sự
kiện lịch sử hết sức đặc sắc nữa của GDĐH Hoa Kỳ. Đạo luật này không những là
một chính sách hết sức khôn khéo và táo bạo của Hoa Kỳ đối với cựu quân nhân,
mà còn là một động tác làm tăng nhanh quá trình đại chúng hóa GDĐH. Vào thời kỳ
đó không phải không có nhiều ý kiến của một bộ phận giới hàn lâm cho rằng đạo
luật này đã tầm thường hóa trường đại học và làm suy giảm chất lượng của chúng,
tuy nhiên cho đến nay, các nhà nghiên cứu về lịch sử GDĐH đã nhận định rằng sự
suy giảm chất lượng đã không xảy ra. Và nối tiếp với sự gia tăng số lượng sinh
viên đại học hết sức mạnh mẽ đó, vào các thập niên sau đó GDĐH Hoa Kỳ đã được
nâng lên trình độ phổ cập, tạo nên một cơ hội hết sức thuận lợi để đất nước này
vững chắc tiến vào thời đại kinh tế tri thức
Chính sách học bổng và tín dụng của Chính phủ Liên bang Hoa Kỳ từ những năm 1970: cấp tài chính không phải cho người sản xuất mà cho người tiêu dùng
Hiện nay, Chính phủ
Liên bang Hoa Kỳ không quản lý trực tiếp hệ thống giáo dục, trong đó có GDĐH,
mà đó là phần việc của các bộ giáo dục bang. Tuy nhiên, Chính phủ Liên bang có
vai trò quan trọng về các điều chỉnh vĩ mô thông qua nhiều biện pháp, trong đó
có việc cấp tài chính thông qua quỹ tín dụng và học bổng cho sinh viên và quỹ
nghiên cứu khoa học. Vào năm 2000 GDĐH Hoa Kỳ được đầu tư 197 tỷ USD, tức 3%
GDP, trong đó sinh viên đại học được hỗ trợ tài chính 68 tỷ USD, tức là hơn 1/3
tổng ngân sách cho GDĐH. Khoảng 70% sinh viên đại học được nhận một loại hỗ trợ
tài chính nào đó: khoản này trang trải được cỡ 40% tổng chi phí. Điều đặc sắc
về chính sách GDĐH ở đây không chỉ ở khối lượng khổng lồ của khoản tín dụng và
học bổng cho sinh viên mà còn là ở cách thức cấp khoản kinh phí này. Sau nhiều
cuộc bàn luận ở Quốc hội vào đầu thập niên 1970, Hoa Kỳ chọn cách cấp khoản kinh
phí này không cho trường đại học, mà trực tiếp cho sinh viên, tức là không cấp
cho người sản xuất mà cấp cho người tiêu dùng. Kết quả của chính sách này là
làm tăng sức mạnh tương đối của người tiêu dùng - người mua, so với người sản
xuất - người bán, đồng thời không làm tăng quyền lực tập trung của Chính phủ
Liên bang đối với các trường đại học (9).
Trên đây chúng tôi chỉ xin
nêu một số sự kiện lịch sử của GDĐH Hoa Kỳ, các sự kiện mà chúng tôi nghĩ là có
liên quan và ảnh hưởng lớn đến việc hình thành các tính chất đặc trưng của hệ
thống GDĐH Hoa Kỳ ngày nay. Vậy thì các đặc trưng quan trọng nhất của GDĐH Hoa
Kỳ là gì? Theo chúng tôi có lẽ là:
- Tính phi tập trung: Đối với hệ thống GDĐH
Hoa Kỳ không có một bộ hoặc cơ quan trung ương nào của Chính phủ Liên bang quản
lý trực tiếp, đưa ra những phương hướng chỉ đạo nghiêm ngặt hoặc những khuôn
mẫu cứng nhắc áp đặt từ trên xuống. Trong việc quản lý hệ thống GDĐH Hoa Kỳ xu
hướng mọi hoạt động phát triển từ dưới lên thể hiện rất rõ. Tính phi tập trung
này có thể đưa hệ thống đến một trong hai tình trạng: một là sự “thiếu hệ
thống”, hoặc nói bằng một từ nặng hơn, sự vô chính phủ; hai là tính dân chủ và
sự phát triển đa dạng. Tình trạng nào trong hai xu hướng trên sẽ xảy ra là tùy
thuộc vào các đặc điểm khác của hệ thống mà chúng ta sẽ nêu dưới đây.
- Tính
thực tiễn: Tuy GDĐH Hoa Kỳ du nhập từ châu Âu, chịu ảnh hưởng rất mạnh mẽ của
các mô hình GDĐH truyền thống hàn lâm của châu Âu, đặc biệt của Anh và Đức,
nhưng tính truyền thống đó không hoàn toàn áp đặt mọi sắc thái của GDĐH Hoa Kỳ.
Nói cách khác, cộng đồng GDĐH Hoa Kỳ không mắc bệnh “giáo điều”. Cuộc sống thực
tế, sự phát triển kinh tế xã hội của vùng đất mới này được phản ánh rất nhanh
chóng vào nền GDĐH của nó. Không câu nệ các ước lệ truyền thống, hàn lâm về mô
hình đại học, về nội dung đào tạo, về ngành học..., việc đào tạo ở các trường
đại học Mỹ phục vụ rất sát yêu cầu của sản xuất, của sự phát triển kinh tế xã
hội. Trong từng ngành nghề đào tạo quan hệ giữa việc dạy và học trong nhà
trường và các hoạt động sản xuất ở các lĩnh vực liên quan cũng hết sức chặt
chẽ. Chính việc gắn chặt với thực tiễn này là một trong những yếu tố tạo nên
sức sống mạnh mẽ của GDĐH Hoa Kỳ.
- Tính đại chúng: Một đặc điểm gần gũi với
tính thực tiễn và có quan hệ gắn bó với tính thực tiễn là tính đại chúng. Tuy
chịu ảnh hưởng của mô hình GDĐH tinh hoa của Anh quốc, ngay từ khi mới xây
dựng, hệ thống GDĐH Hoa Kỳ đã mang trong mình tính đại chúng. Vào khoảng 1880 ở
Vương quốc Anh với 23 triệu dân có 4 trường đại học, trong khi chỉ tại riêng
bang Ohio Hoa Kỳ với 3 triệu dân đã thành lập 37 trường đại học. Năm 1928, Hoa
Kỳ có 1220 trường đại học với gần 1,2 triệu sinh viên, chiếm 15% tỷ lệ thanh
niên cùng độ tuổi, gấp 5 lần tỷ lệ trung bình của GDĐH châu Âu thời đó (6).
Như đã nói trên, sau Chiến tranh thế giới thứ hai Đạo luật GI Bill đã đưa hàng
triệu cựu quân nhân vào đại học làm tăng số lượng sinh viên đại học lên hết sức
nhanh chóng. Hiện nay, Hoa Kỳ có 15 triệu sinh viên đại học, chiếm hơn 70% tỷ
lệ thanh niên cùng độ tuổi, tức là ở mức độ phổ cập GDĐH. Tính đại chúng của
GDĐH Hoa Kỳ không chỉ biểu hiện ở số lượng sinh viên như đã nêu, mà có nguồn
gốc từ cơ cấu của hệ thống GDĐH và tính chất của các trường đại học. Một yếu tố
đặc sắc của GDĐH Hoa Kỳ là sự phát triển của hệ thống cao đẳng cộng đồng với
khoảng 1700 trường rải khắp các địa bàn dân cư. Với các chương trình đại học 2
năm nặng về giáo dục đại cương, với bằng “phó cử nhân” của đại học 2 năm
(American Associate Degree), với cơ chế chuyển tiếp từ đại học 2 năm đến đại
học 4 năm và cơ chế chuyển tiếp tín chỉ nói chung v.v... hệ thống GDĐH Hoa Kỳ
có mọi điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện đại chúng hóa và phổ cập hóa
GDĐH.
- Tính thị trường có lẽ là đặc điểm bao trùm nhất, thể hiện rõ nhất của
GDĐH Hoa Kỳ.Trong toàn bộ hệ thống
GDĐH Hoa Kỳ cũng như trong hoạt động của từng trường đại học, sức mạnh của thị
trường chi phối rất rõ rệt. Hơn nữa, những người làm chính sách không những
chấp nhận sự chi phối của thị trường mà còn tận dụng sức mạnh đó để nâng hiệu
quả của đầu tư, chẳng hạn như trong việc chọn phương thức cấp học bổng và tín
dụng sinh viên của Chính phủ Liên bang đã nêu trên. Trong lịch sử phát triển
GDĐH Hoa Kỳ, rất nhiều trường đại học được thành lập, và cũng không ít trường
phá sản nếu không đủ sức cạnh tranh để tồn tại, đúng như quy luật của thị
trường. Người ta thường nói đến hai tính chất quan trọng của thị trường khi so sánh
với các dạng tác động xã hội khác, đó là:
1) các kết quả không
phải nảy sinh từ kế hoạch hoặc từ những quyết định có chủ đích từ trung ương;
2) khi có nhiều người
sản xuất (8), hành vi của họ bị tác động bởi sự cạnh tranh để giành
khách hàng, sự cạnh tranh đó làm tăng ảnh hưởng của khách hàng lên đặc điểm và
chất lượng của sản phẩm, và lên cả bản thân đặc điểm của người sản xuất (8).
Đối với GDĐH, khi người mua là sinh viên thì các trường đại học với tư cách là
người sản xuất phải cạnh tranh nhau để thu hút số lượng sinh viên nhập học. Còn
khi xem người bán là sinh viên tốt nghiệp thì có sự cạnh tranh với nhau giữa họ
để lập nghiệp. Cả hai loại chủ thể đó, nhà trường và sinh viên tốt nghiệp, đều
cùng cố gắng để chuyển các cơ hội trong thị trường việc làm vào quy mô của các
chương trình và khoa ngành đào tạo. Quyền tự chủ cao của các trường đại học
giúp họ di chuyển nguồn lực giữa các chương trình và khoa ngành đào tạo để đáp
ứng sự thay đổi về nhu cầu nhập học. Cũng tương tự như vậy đối với công việc
nghiên cứu: các nhóm nghiên cứu cạnh tranh nhau để được nhận kinh phí, còn các
cơ quan cấp kinh phí thì thu được lợi ích từ chất lượng công trình nghiên cứu
mà họ mua. Tuy trong GDĐH Hoa Kỳ, quy luật của thị trường được coi trọng và
khai thác, nhưng không phải GDĐH được phó mặc cho thị trường. Hoa Kỳ là một
nước có hệ thống GDĐH tư rất lớn, nhưng khác với ở một số nước châu á (chẳng
hạn, Phillipin), phần lớn các trường đại học tư ở Hoa Kỳ hoạt động theo nguyên
tắc không vì lợi nhuận. Chỉ một số rất ít các trường sau trung học theo hướng
nghề nghiệp cụ thể hoạt động vì lợi nhuận. Đối các trường đại học tư không vì
lợi nhuận lâu đời, ngoài học phí của sinh viên họ thường có một tài sản hiến
tặng (endownment) tích lũy được khá lớn và các khoản biếu thường xuyên khác từ
các doanh nghiệp, cựu sinh viên giúp họ hoạt động (chẳng hạn, tài sản hiến tặng
tích lũy được của Viện Đại học Harvard cỡ 25 tỷ USD)(11). Chính
trách miễn thuế cho các doanh nghiệp đối với phần lợi nhuận mà họ sử dụng để
tài trợ cho các trường đại học là một khoản trợ cấp ngầm của Nhà nước cho
trường đại học, khuyến khích cho loại tài trợ này(12)(13). Ngoài ra,
các trường đại học tư có sức cạnh tranh mạnh có thể nhận được thêm nguồn tài
trợ đáng kể qua nguồn đầu tư cho các chương trình nghiên cứu của Nhà nước Liên
bang. Các chính sách nói trên của Nhà nước tạo điều kiện cho các trường đại học
có thể hoạt động theo nguyên tắc không vì lợi nhuận, tức là hạn chế bớt những
tác động theo hướng tiêu cực của thị trường. Như trên đây đã nói, tùy theo các
đặc điểm khác của hệ thống, tính phi tập trung có thể dẫn đến một trong hai
tình trạng: hoặc là sự vô chính phủ hoặc là tính dân chủ và sự phát triển đa
dạng. Vì GDĐH Hoa Kỳ tôn trọng các quy luật của thị trường và có ý thức khai
thác chúng, các lực thị trường đã tạo nên sự cân bằng động cho hệ thống, thêm
nữa, Nhà nước Hoa Kỳ còn có những tác động gián tiếp hỗ trợ thêm cho các tác
động tích cực của thị trường. Như vậy, hệ thống GDĐH Hoa Kỳ phát triển đa dạng
nhưng ổn định vì nó được giữ chủ yếu bởi các lực liên kết bên trong chứ không
phải bằng những tác động áp đặt trực tiếp từ bên ngoài.
Những giá trị của kinh
nghiệm giáo dục đại học Hoa Kỳ đối với giáo dục đại học nước ta trong thời kỳ mới
Hệ thống GDĐH Hoa Kỳ đã phát triển mạnh mẽ và đạt
được nhiều thành quả. Vậy thì Việt Nam có thể học tập được gì từ hệ
thống này? Đây là câu hỏi không dễ trả lời. Để có giải đáp đúng đắn cho mỗi
nước, có lẽ trước hết nên nhớ một câu danh ngôn của cổ nhân, ý nói: “Cây cam sẽ
là cây cam khi trồng nó ở phía nam sông Dương Tử, nhưng nó có thể trở thành một
cây gì khác khi trồng ở phía bắc con sông ấy” - vì đất và nước ở hai nơi không như
nhau. Nói cách khác, theo chúng tôi, muốn học tập được gì ở hệ thống GDĐH Hoa
Kỳ trước hết cần phải hiểu biết sâu sắc hệ thống đó, hơn nữa cũng phải hiểu rõ
bản thân mình và cái mà mình cần, mà điều đó đòi hỏi không ít thời gian và suy
ngẫm. Lấy ví dụ từ Vương quốc Anh. Người Anh đã biết xu hướng đại chúng hóa GDĐH
của Hoa Kỳ từ lâu (Hoa Kỳ đã đạt tỷ lệ 15% sinh viên độ tuổi đại học từ năm
1928 và 45% từ năm 1970) (9). Tuy nhiên, trước đây, người Anh chưa
thể lấy quan điểm GDĐH đại chúng của Hoa Kỳ để thay thế cho quan điểm GDĐH tinh
hoa truyền thống của họ: trước năm 1979 ở Anh quốc chỉ có 13% sinh viên ở độ
tuổi đại học. Chỉ từ năm 1988 Vương quốc Anh mới tập trung để tăng tỷ lệ đó lên
30% vào năm 1993. Có thể nhắc lại ví dụ về EU đã nêu ở phần đầu của bài này. Từ
năm 1989, nhiều nước phát triển của EU trong khối OECD đã tổ chức nghiên cứu rất
sâu về hệ thống GDĐH Hoa Kỳ, đã từng gọi hệ thống GDĐH bang California
là “giấc mơ California”
và khuyến cáo các nước thành viên OECD xem đó là kiểu mẫu của GDĐH thế kỷ XXI (14).
Tuy nhiên, chỉ cho đến nay EU mới quyết tâm cải cách hệ thống GDĐH của mình để hướng
tới một “Không gian GDĐH châu Âu” thống nhất, trong đó có rất nhiều yếu tố
tương đồng với GDĐH Hoa Kỳ(15) . Phải chăng chỉ ở thời điểm này,
thời điểm mà nhân loại đang tiến vào nền kinh tế tri thức trong xu thế toàn cầu
hóa mạnh mẽ, EU mới có điều kiện và mới cảm nhận được nhu cầu bức bách phải
chấp nhận học tập một số kinh nghiệm của GDĐH Hoa Kỳ? Đối với Việt Nam, điều kiện
kinh tế xã hội của nước ta so với Hoa Kỳ có nhiều khác biệt, do đó việc học tập
kinh nghiệm của hệ thống GDĐH Hoa Kỳ không phải dễ dàng. Vào năm 1987, khi bắt
đầu giai đoạn đổi mới GDĐH, chúng ta có rất ít điều kiện để tìm hiểu hệ thống GDĐH
Hoa Kỳ. Tuy nhiên, theo đường lối đổi mới chung của đất nước chuyển từ nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường, ngành đại học đã đề xuất
một số chủ trương đổi mới thích hợp, như đã nêu ở phần
2. Tuy hệ thống GDĐH đổi mới của chúng ta về
hình thức có đôi nét gần với mô hình Mỹ, nhưng vận hành của hệ thống GDĐH của
chúng ta còn rất kém năng động so với hệ thống GDĐH Hoa Kỳ. Vì đâu có sự chênh
lệch đó? Phải chăng, vì giữa hai hệ thống GDĐH của hai nước có sự khác biệt cơ
bản, ở họ, tính thị trường tác động mạnh mẽ lên mọi khía cạnh trong sự vận hành
hệ thống, và sự điều chỉnh của Nhà nước, nếu có, thường chỉ là gián tiếp, còn ở
nước ta, thói quen theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp cũ vẫn còn khá
nặng nề, và tác động của Nhà nước trong điều hành GDĐH vẫn thường là áp đặt
trực tiếp? Chúng ta đã cần khá nhiều thời gian để tăng thêm hiểu biết và tạo
nên sự đồng thuận. Nước ta bắt đầu đổi mới GDĐH từ năm 1987, và đã áp dụng một
số ý tưởng quan trọng của GDĐH Hoa Kỳ, nhưng phải đợi đến Hội thảo quốc gia về
Đổi mới GDĐH cuối tháng 3/2004 vừa qua nhiều nhà khoa học mới phát biểu ý kiến
thẳng thắn của mình là cần nghiên cứu học tập mô hình GDĐH Hoa Kỳ để đổi mới hệ
thống GDĐH nước ta. Như vậy, với thời gian, cộng đồng GDĐH Việt Nam dần dần hiểu
biết nhiều hơn về GDĐH Hoa Kỳ và có sự đồng thuận cao hơn trong việc học tập
một số kinh nghiệm của GDĐH Hoa Kỳ. Tóm lại, GDĐH Việt Nam đã chịu ảnh hưởng
của GDĐH Hoa Kỳ từ lâu, qua nhiều con đường. Đó là sự du nhập vào miền Nam một số mô hình và quy trình của GDĐH Hoa Kỳ:
các trường cao đẳng cộng đồng, học chế tín chỉ trước năm 1975, khi cuộc chiến
tranh giữa Hoa Kỳ và Việt Nam
đang tiếp diễn. Về phía Việt Nam
lúc đó việc du nhập các mô hình này là trực tiếp nhưng chưa mang tính tự nguyện,
vì những vấn đề lớn hơn của cuộc chiến tranh như chủ quyền và độc lập dân tộc
chưa được giải quyết. Vì vậy, những ảnh hưởng đó không bền vững, và thực tế
chúng đã bị xóa bỏ sau năm 1975. Khoảng từ năm 1987 đến năm 1995, khi Việt Nam
chuyển sang kinh tế thị trường, một số ý tưởng của mô hình GDĐH Hoa Kỳ đã được
tái du nhập vào Việt Nam một cách gián tiếp, vì cánh cửa giữa Việt Nam và Hoa
kỳ vẫn bị đóng kín do chính sách cấm vận của Hoa Kỳ. Thông tin về GDĐH Hoa Kỳ
truyền vào Việt Nam không đủ để tạo một sự đồng thuận cao đối với việc áp dụng
các ý tưởng đó. Từ sau năm 1995, với sự bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam
và Hoa Kỳ, cánh cửa giữa hai quốc gia đã được rộng mở, những người làm chính sách
và cộng đồng GDĐH Việt Nam hiểu biết nhiều hơn về đất nước và nền GDĐH Hoa Kỳ,
do đó những chủ trương về thiết kế cơ cấu hệ thống trình độ với ba mức bằng cấp
chính cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ, về đại chúng hóa GDĐH, về tăng cường mở rộng
việc áp dụng học chế tín chỉ, về xây dựng hệ thống cao đẳng cộng đồng, về mở
rộng hệ thống các trường đại học ngoài công lập, về hệ thống kiểm định công
nhận chất lượng... đã được Chính phủ thúc đẩy thực hiện và đã tìm được sự đồng
thuận cao trong cộng đồng GDĐH Việt Nam. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam còn thể
hiện ý nguyện xây dựng một vài trường đại học đẳng cấp quốc tế dựa vào sự giúp
đỡ tư vấn của các trường đại học Hoa Kỳ. Như vậy, một đặc điểm nổi bật của việc
áp dụng các kinh nghiệm của GDĐH Hoa Kỳ vào Việt Nam trong giai đoạn mới hiện
nay là có tính trực tiếp và có sự tự nguyện.
Kết luận
Qua quá trình phát triển lịch sử lâu dài, một đặc
điểm đã được hình thành trong phẩm chất của dân tộc Việt Nam là không
chịu chấp nhận những áp đặt của ngoại bang. Chính đặc điểm này làm cho dân tộc
Việt Nam không bị Trung Quốc đồng hóa trong suốt gần một nghìn năm Bắc thuộc,
làm cho nhân dân Việt Nam chống trả thành công mọi sự áp đặt của các nước
phương Tây, dù sự áp đặt đó được gọi là văn minh, tự do hay dân chủ. Tuy nhiên,
một đặc điểm khác không kém quan trọng của dân tộc Việt Nam là sự nhạy
cảm và rộng mở trong việc tiếp thu những tinh hoa của các dân tộc khác và của
nhân loại, với điều kiện sự tiếp thu này phải là tự nguyện. Sự vận động của
GDĐH Việt Nam
cũng không thể không theo những quy luật chung đó liên quan đến đặc điểm dân
tộc. Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ mà kinh tế xã hội có những bước phát
triển nhanh chóng, GDĐH Việt Nam đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn
của yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế. Một kế hoạch chiến
lược dài hạn đổi mới GDĐH Việt Nam
đang được xây dựng theo tinh thần của Nghị quyết của Chính phủ (5).
Trong những những mục tiêu phác thảo của kế hoạch chiến lược mà hệ thống GDĐH
Việt Nam cần đạt tới có rất nhiều ý tưởng mượn từ mô hình GDĐH Hoa Kỳ, vì đó là
một mô hình GDĐH thích nghi tốt nhất với nền kinh tế thị trường, một trong
những biện pháp quan trọng nhất của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
Việt Nam. Như vậy, trong giai đoạn sắp tới, các ý tưởng của mô hình GDĐH Hoa Kỳ
sẽ tiếp tục ảnh hưởng lên GDĐH Việt Nam. Tuy nhiên, khác với các giai đoạn
trước đây, sự tiếp nhận ý tưởng lần này sẽ là trực tiếp và tự nguyện, do đó có
thể hy vọng tiến độ áp dụng ý tưởng đó sẽ nhanh chóng và kết quả sẽ bền vững
hơn trước. Với những suy nghĩ trên đây, tôi hy vọng những kinh nghiệm của GDĐH
Hoa Kỳ sẽ đóng góp tích cực cho sự tiến bộ của nền GDĐH Việt Nam, và tập sách
này(16) sẽ góp một phần nhỏ thúc đẩy sự tiến bộ đó. Thỏng 6 năm 2006.
TÀI LIỆU DẪN
(1) Lê Văn Giạng, Lịch
sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, 2003.
(2) Bộ Giáo dục và Đào
tạo, 50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo (1945-1995), Nxb Giáo dục,
1995.
(3) Luật Giáo dục và
Văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 ; Luật Giáo
dục (sửa đổi) 2005, Nxb Chính trị quốc gia, 2005.
(4) Chiến lược phát
triển giáo dục 2001-2010, Nxb Giáo dục, Hà nội , 2002
(5) Nghị quyết về Đổi
mới cơ bản và toàn diện Giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020, số
14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005.
(6) The History of
Higher Education, ASHE Reader Series, Simon & Schuster Custom Publishing,
1997.
(7) Lâm Quang Thiệp,
“Về xu hướng hội nhập giáo dục đại học trên thế giới và những đổi mới của giáo
dục đại học Việt Nam
”. Trích từ Kỷ yếu Hội thảo Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam, Hội nhập và
Thách thức, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội, 3/2004
(8) Martin A. Trow,
American Higher Education: Past, Present and Future. Trích từ “Foundation of
American Higher Education”, Simon & Schuster Publisher, 1999.
(9) Roger Geiger, “The Ten
Generations of American Higher Education” – từ “American Higher Education in
the Twenty-first Century – Social, Political, and Economic Challenges”, 2001
. (10) GI – quân nhân, cựu
quân nhân (Hoa Kỳ). GI Bill là cách gọi tắt Đạo luật Tái Điều chỉnh đối với
Quân nhân. Cách dùng GI theo nghĩa này ra đời từ giữa thế kỷ XX để gọi tắt từ
“government issue” (cấp phát của nhà nước) một kiểu giải thích nhại từ GI
-"galvanized iron” (đồ sắt mạ) được ghi trên nhiều quân trang quân dụng
của quân đội Mỹ - theo Microsoft Encarta, 2005.
(11) “The chronicle of
Higher Education" - Vol. LIII, No 1, Aug. 25, 2006.
(12) Martin Trow, From
Mass Higher Education to Universal Access. Trích từ “In Defence of American
Higher Education”, Johns Hopkins Press, 2001 (có dịch trong cuốn sách này) ;
(13) Bruce D. Johnstone, “Hệ thống Giáo dục đại học Hoa Kỳ” (Chương 2 từ sỏch
"Giáo dục Đại học Hoa Kỳ", Lâm Quang Thiệp, Bruce D. Johnstone vaf
Philip Altbach đồng chủ biên, NXB Giáo dục, 9-2006.
(14) Sheldon Rothblatt,
“The OECD, the Master Plan and the California
Dream: A Berkeley Conversation”, University of California
, Berkeley ,
1992.
(15) Lâm Quang Thiệp,
“Về xu hướng hội nhập giáo dục đại học trên thế giới và những đổi mới của giáo
dục đại học Việt Nam
”. Trích từ Kỷ yếu "Hội thảo Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam , Hội nhập
và Thách thức", Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội, 3/2004.
(16) Bài này được lấy
từ Chương 1 của tập sách "Giáo dục Đại học Hoa Kỳ", do Lâm Quang
Thiệp, D.Bruce Johnstone và Philip G. Altbach đồng chủ biên, NXB Giáo dục,
tháng 9 năm 2006
(Nguồn: Công ty cổ phần Khoa học và Công nghệ giáo dục VN)